Việt Nam sẽ sớm chính thức trở thành thành viên của WTO. Cơ hội lắm, thách thức cũng nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phải chịu áp lực cạnh tranh trên thị trường trong nước, mà còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước thành viên trong WTO trên phạm vi toàn cầu.
Để sớm nhận diện được cơ hội, thách thức và có chiến lược thích nghi với môi trường cạnh tranh mới, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chi nhánh Tp.HCM cùng phối hợp với Trung tâm Thông tin Sài Gòn (SNC) thuộc Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT), đã tổ chức Hội thảo "Thương mại điện tử và doanh nghiệp" nhằm trang bị cho đông đảo hội viên của VCCI, Chi nhánh Tp.HCM cách thức tiếp cận thị trường thế giới thông qua mạng toàn cầu, giúp cho các doanh nghiệp hội viên hình thành khuynh hướng, định hướng hoạt động doanh nghiệp mang tính cạnh tranh toàn cầu thông qua các mạng điện tử, các sàn giao dịch điện tử.
Tại hội thảo, ngoài 12 báo cáo của các chuyên gia, nhà quản lý, còn có nhiều ý kiến, kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã có những hoạt động thương mại điện tử được trao đổi thẳng thắn với sự tham dự của gần 400 doanh nghiệp tại Tp.HCM và các tỉnh lân cận.
Chúng tôi xin lược trích một số ý kiến từ các báo cáo tham luận chính thức.
TS. Lê Mạnh Hà Giám đốc Sở Bưu chính Viễn thông Tp.HCM
Hiện Tp.HCM dẫn đầu cả nước về đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng viễn thông và hạ tầng Internet. Trên địa bàn thành phố có 4 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel), FPT và Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT). Quy mô cung cấp và thuê bao Internet ở thành phố phát triển với tốc độ 100-200%/năm trong 2 năm 2003-2004. Nay thành phố đã có 5 nhà cung cấp dịch vụ cho trên 800.000 thuê bao quy đổi và khoảng 10.000 thuê bao ADSL...
Nhìn chung các hoạt động giao dịch hàng ngày của người dân vẫn theo thói quen trả tiền mặt, chưa hình thành thói quen gởi tiền và giao dịch qua ngân hàng. Gần đây, một số doanh nghiệp trên địa bàn đã thực hiện hình thức gởi tiền, rút tiền, trả lương qua tài khoản tại các ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp và công nhân tại các khu công nghiệp. Số người dùng thẻ ngân hàng đã tăng, hình thức thanh toán bằng thẻ tại một số khu mua sắm, công ty taxi đã được chấp nhận.
Tuy nhiên người dân vẫn chưa có nhu cầu thực sự. Về phía các doanh nghiệp, đa số mới chỉ dừng lại ở bước giới thiệu sản phẩm trên mạng, phương thức giao dịch vẫn là doanh nghiệp với khách hàng (B2C) chứ chưa phát triển loại doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B).
Quan điểm của Sở Bưu chính Viễn thông Tp.HCM là: Thương mại điện tử là đáp ứng nhu cầu thực tế, không thể thực hiện một cách áp đặt. Với môi trường pháp lý chưa đầy đủ, doanh nghiệp và người dân chưa có tập quán thanh toán qua ngân hàng, hệ thống thương mại, siêu thị chưa phát triển thì việc xây dựng thương mại điện tử phải thực hiện từng bước.
Các bước đó là: đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan quản lý Nhà nước, trong doanh nghiệp và của người dân, thực hiện giao dịch điện tử (chứ chưa phải là thương mại điện tử).
Việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin tại các đơn vị quản lý Nhà nước sẽ là yếu tố làm tăng khả năng giao dịch của người dân và các doanh nghiệp với cơ quan Nhà nước qua công nghệ thông tin. Điều này sẽ từng bước tạo thành thói quen trong giao dịch điện tử giữa người dân và người quản lý (C2G) và doanh nghiệp với chính quyền (B2G)... Đây sẽ là tiền đề rất tốt cho các giao dịch qua mạng khác như thương mại điện tử.
Một cổng doanh nghiệp Tp.HCM được xây dựng, nhằm mục đích tạo ra "sân chơi lớn" để các doanh nghiệp thành phố giới thiệu sản phẩm của mình với các doanh nghiệp khác và quốc tế. Từ đây, cộng đồng hơn 70.000 doanh nghiệp sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ hữu ích: sử dụng Internet tốc độ cao, trực tiếp quản lý quầy hàng trực tuyến của mình, tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn, được cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp (như đào tạo, tư vấn và các dịch vụ hướng thương mại điện tử tương lai).
Thông qua cổng giao dịch, các doanh nghiệp Việt Nam được kết nối đến các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế, các đại sứ nước ta ở nước ngoài, các đối tác đang đầu tư và làm ăn với thành phố. Tham gia cổng này, doanh nghiệp được tiếp cận với thông tin các thị trường (EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, châu Phi, AFTA...), được cung cấp hệ thống thông tin pháp lý của Nhà nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, được làm quen với phương thức giao dịch thương mại quốc tế và sử dụng các giá trị gia tăng trên cổng... Dự kiến trong năm 2005 sẽ có khoảng 15.000 doanh nghiệp thành phố tham gia, và năm 2006 sẽ có trên 30.000 doanh nghiệp.
Khi việc giao dịch trên mạng đã trở thành tập quán, với việc hình thành đầy đủ khung pháp lý, và sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính, ngân hàng, thì sự phát triển của thương mại điện tử là tất yếu.
█
Công cụ đắc lực cho các nhà kinh doanh
Ông Trần Công Hoàng Quốc Trang Chủ tịch Hiệp hội nhựa Tp.HCM
Thương mại điện tử là hình thức thanh toán của tương lai gần đối với các nước đang phát triển, là công cụ đắc lực cho các nhà kinh doanh hiện đại. Để phát triển thương mại điện tử, cần có chính sách quốc gia về thương mại điện tử, hạ tầng kỹ thuật thương mại điện tử, hệ thống thanh toán qua mạng, trình độ giao dịch và sự hợp tác phối hợp giữa nhà sản xuất nhà quản lý sàn giao dịch hệ thống thanh toán trực tuyến khách hàng.
Trong khi tại Việt Nam, chúng ta còn đứng trước những thực tế phần lớn các doanh nghiệp chưa chuẩn bị cho việc hội nhập thương mại điện tử, chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh về thương mại điện tử, hạ tầng kỹ thuật còn đang trong giai đoạn phát triển, tri thức về thương mại điện tử trong cộng đồng chưa cao, nhà quản lý sàn chưa phổ biến, thói quen thanh toán qua mạng của khách hàng chưa phổ cập, chưa có sự khuyến khích mạnh của hệ thống quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, từ 2 năm qua Hiệp hội nhựa Tp.HCM đã mạnh dạn xây dựng sàn giao dịch trên website vnplas.com và đã đạt được những thành công bước đầu. Việc thể nghiệm thương mại điện tử vào sàn giao dịch này do Trung tâm Tin học Việt Quốc quản lý. Việc thanh toán qua mạng trực tuyến thông qua hệ thống của 2 checkout (2CO) là công ty thanh toán qua mạng của Mỹ được chọn làm trung gian thanh toán. Khách hàng cũng có thể thanh toán trực tiếp bằng chuyển khoản hoặc tiền mặt tại trung tâm.
Tiến trình giao dịch được thực hiện qua 3 bước: đăng ký, xem hàng hoá, và mua hàng hoá. Hoặc theo quy trình ngược, cũng gồm 3 bước: xem hàng hoá, đăng ký, và mua hàng hoá. Sau khi đăng ký, khách hàng sẽ nhận được một tài khoản bao gồm: tên đăng nhập, và mật khẩu. Sau khi mua hàng, khách hàng sẽ nhận được Order ID.
Các doanh nghiệp nhựa Tp.HCM trong quá trình thực hiện ứng dụng thương mại điện tử qua website Vnplas.com đều thừa nhận: các giao dịch đã mang lại nhiều hiệu quả và nhiều cơ hội mới trong kinh doanh, nhờ đó các doanh nghiệp đã tiếp cận được nhiều thị trường trên thế giới.
Hiện nay, sàn giao dịch trên website vnplas.com đã được khá đông doanh nghiệp trong ngành nhựa hưởng ứng. Điều đáng nói là các doanh nghiệp này đã từng sử dụng hệ thống sàn giao dịch bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là chuyển khoản thông qua ngân hàng do chưa có chủ trương về quản lý Nhà nước về thanh toán trên mạng.
█
Cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử đối với doanh nghiệp
TS. Võ Văn Huy Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Đào tạo Quản trị Doanh nghiệp (Đại học Bách khoa Tp.HCM
Những ưu điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiến hành thương mại điện tử có thể được trình bày tóm tắt như sau:
Tất cả các trang web trên Internet là bình đẳng, doanh nghiệp nhỏ cũng như lớn đều có không gian lớn như nhau đối với các công cụ tìm kiếm trang web được sử dụng thông dụng hiện nay;
Internet được xem là cách ít đắt nh t mà các doanh nghiệp nhỏ tiếp thị sản phẩm và dịch vụ trên toàn cầu;
Internet cho phép doanh nghiệp nhỏ thực hiện các chiến lược toàn cầu hiệu quả, thay vì phải tốn kém chi phí rất lớn cũng như sự phức tạp khi kinh doanh ở nước ngoài;
Việc sử dụng Internet cho phép doanh nghiệp nhỏ duy trì dịch vụ khách hàng sau khi bán ở mức chi phí tương đối thấp và duy trì tiếp xúc khách hàng về mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh một cách liên tục;
Internet cho phép doanh nghiệp nhỏ thể hiện sản phẩm và dịch vụ của mình dưới dạng thức đa phương tiện;
Internet tiếp cận được người mua trẻ hơn và giàu có hơn.
Kết quả thăm dò của chúng tôi cũng cho biết; hầu hết các doanh nghiệp đều lạc quan về lợi ích do thương mại điện tử mang lại cho sự nghiệp kinh doanh của họ. Tuy nhiên chỉ có 30% cho là thương mại điện tử rất cần thiết ở thời điểm hiện nay. Một số khác nói rằng nó sẽ thực sự cần thiết sau khoảng 2-3 năm tới khi điều kiện chín muồi hơn.
Các doanh nghiệp cũng nhận thức được các rủi ro tiềm ẩn của thương mại điện tử. Đó là: thương mại điện tử có thể làm cho nhân viên của họ làm việc với năng suất lao động và hiệu quả thấp; nếu không cẩn thận doanh nghiệp có thể bị lộ nhiều thông tin bí mật có tầm quan trọng trong kinh doanh và có thể phải chịu nhiều tổn thất từ đó; "đối mặt với trở ngại văn hóa và luật pháp trong thương mại điện tử" là bất lợi đa số các doanh nghiệp e dè cho rằng chưa có luật hoặc luật chưa rõ ràng và đầy đủ sẽ gây ra nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp mà họ khó lường trước được; chi phí đầu tư ban đầu quá lớn khi tiến hành thương mại điện tử đã ảnh hưởng đáng kể đến nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp trong khi khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, việc xác định rõ ràng và lợi ích từ thương mại điện tử là một vấn đề không đơn giản nếu không muốn nói là ngoài khả năng doanh nghiệp. Một số hoạt động kinh doanh không thích hợp với thương mại điện tử, ví như các thực phẩm tươi sống và các mặt hàng đắt tiền như đồ trang sức hoặc đồ cổ...
█
Vai trò của ngân hàng trong thương mại điện tử
Ông Phạm Văn Thiệt Tổng Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB)
Trước hết như chức năng của mình, ngân hàng đóng vai trò là trung gian thanh toán giữa bên mua và bên bán như trong mọi hình thức thương mại khác. Vì người mua và người bán không trực tiếp tiếp xúc, việc xác thực khả năng thanh toán của người mua với người bán hàng là cơ sở duy nhất để người bán có thể tin tưởng gởi hàng đi.
Muốn vậy, ngân hàng phải có khả năng cho phép người bán hàng bất cứ ở đâu trên thế giới liên hệ trực tuyến với mình, và phải có khả năng kiểm tra số dư của người mua một cách trữ tuyến. Ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu thanh toán từ phía ngân hàng của người bán hàng và có khả năng kiểm tra việc đòi tiền bán hàng là hợp lệ trước khi tiến hành thanh toán. Ngân hàng phải đảm nhiệm cả hai vai trò: ngân hàng của người bán hàng và ngân hàng của người mua hàng.
Ngân hàng đóng vai trò tạo ra cơ sở cho thương mại điện tử: ngân hàng thực hiện việc khuyến khích, vận động khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và cung cấp cho khách hàng phương tiện để thực hiện thương mại điện tử như khả năng xử ký trực tuyến, các loại thẻ thanh toán, séc chuyển tiền... mà khách hàng sử dụng trong thương mại điện tử không thể tiến hành thương mại điện tử mà không có các khả năng và công cụ này.
Tự thân ngân hàng cũng tham gia thương mại điện tử thông qua các sản phẩm, tiện ích ngân hàng điện tử: các dịch vụ truy vấn thông tin tự động qua hệ thống ngân hàng qua điện thoại, ngân hàng qua Internet; các sản phẩm dịch vụ trực tuyến như đăng ký sản phẩm, thanh toán hóa đơn, đăng ký và thanh toán các khoản vay.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin, đã làm thay đổi to lớn trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng truyền thống, và theo xu thế đó các ngân hàng ngày nay sẽ phải áp dụng một cách nhanh chóng và triệt để các ứng dụng thương mại điện tử. Việc đưa các sản phẩm dịch vụ thương mại điện tử vào ngân hàng sẽ làm đa dạng hóa các sản phẩm ngân hàng truyền thống, mở ra nhiều cơ hội mới, khả năng cạnh tranh mới.
Riêng với ACB, trong thời gian qua đã và đang cùng các đối tác xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho vai trò thanh toán của ngân hàng trong thương mại điện tử. Ví như năm 2004 đã xây dựng nhiều sản phẩm và dịch vụ ngân hàng điện tử như vơi Mobile - Banking, khách hàng có thể thực hiện giao dịch qua điện thoại di động; khách hàng nhận được tin nhắn thay đổi số dư trực tuyến với Home - Banking; khách hàng là các công ty, doanh nghiệp có thể lập các ủy nhiệm chi, chuyển khoản online ngay tại cơ quan mình, đồng thời ACB cũng phối hợp với VACS thực hiện triển khai hệ thống chứng chỉ số và chữ ký điện tử cho các khách hàng sử dụng dịch vụ Home-Banking.
Năm 2005, đầu tiên trong các ngân hàng đưa vào hoạt động dịch vụ thanh toán qua tổng đài tự động 247, cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch đăng ký trước qua hệ thống trung tâm dịch vụ khách hàng. Hiện nay, ACB đang tiến hành hợp tác với các đơn vị truyền thông mạng có uy tín tại Việt Nam để hình thành các kênh thanh toán trực tuyến, cung cấp các sản phẩm khác như thanh toán trực tuyên bằng thẻ tín dụng có các website bán hàng tại Việt Nam...
█
Bắt tay ngay vào việc với những gì đang có
Ông Louis Nguyễn Thế Lữ Giám đốc Điều hành Vinacapital Corporate Finance
Vinacapital tin tưởng vào sự phát triển và việc sử dụng thương mại điện tử tại Việt Nam. Đây là cơ hội tạo ra bước đột phá áp dụng những kỹ thuật mới và mang lại những hiệu quả cao hơn.
Mặc dù thương mại điện tử tại Việt Nam còn gặp nhiều thử thách mang tính phổ biến chung, như: chi phí và thời gian thiết kế trang web; bảo đảm giao dịch; cung cấp tên miền; chi phí chuyển tiền bằng Internet; tiếp thị trang web; bảo trì trang web; quản lý đơn đặt hàng...
Đồng thời với những thử thách khác có tính chất địa phương, như: sự phổ biến Internet còn hạn chế; ít người sử dụng thẻ tín dụng; chi phí vận chuyển còn cao; thiếu những thỏa thuận tạo nên sự tin tưởng.
Thực tế, với dân số 83 triệu người là một tiềm năng phát triển lớn, nhưng việc sử dụng internet trong dân còn rất ít. Cước phí Internet tốc độ cao (ADSL) vẫn còn cao gấp 3-4 lần so với Mỹ và Trung Quốc. Việc sử dụng thẻ tín dụng mới chỉ có khoảng 1 triệu người, chiếm khoảng 1,2% dân số; theo dự báo của các công ty thẻ tín dụng và quan chức Chính phủ, thị trường thẻ này có tiềm năng khoảng 9,5 triệu.
Môi trường pháp lý về thương mại điện tử hiện nay còn chưa đầy đủ: luật về chữ ký điện tử dành cho những tài liệu và hợp đồng điện tử chỉ có hiệu lực từ cuối năm 2005; sự bảo vệ về sở hữu trí tuệ còn nhiều việc phải làm; Luật thuế hiện hành làm cho việc tải các phần mềm và nhập khẩu những sản phẩm cần thiết trở nên khó và đắt tiền hơn.
Tuy nhiên, một số bước tiến đã được ghi nhận: như từ 2001, những tổ chức phi Chính phủ đã có thể đăng ký để cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam; đã hủy bỏ sự độc quyền về cơ sở hạ tầng mạng lưới và cho phép một thị trường cạnh tranh cung cấp dịch vụ viễn thông từ tháng 10/2002; cước phí viễn thông đã giảm mạnh từ tháng 4/2003...
Việt Nam cũng đang cải tiến cơ sở hạ tầng giao thông, nhằm giảm chi phí vận chuyển để đạt được lợi ích của thương mại điện tử; tiếp tục khuyến khích cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông để giảm giá thành và tăng số người sử dụng; đang tiếp tục cổ phần hóa các công ty cung cấp dịch vụ viễn thông, giảm thuế và các lệ phí liên quan; phát triển c u trúc luật lệ để tạo sự tin tưởng cho người tiêu dùng (thông qua luật chữ ký điện tử..); Chính phủ có thể bắt đầu mua bán bằng thương mại điện tử để có kinh nghiệm thực tế và điều chỉnh các chính sách.
Chúng tôi cho rằng: nên bắt đầu làm việc thương mại điện tử với những gì chúng ta có sẵn ngay cả khi chưa hoàn chỉnh!
█
Xây dựng cổng thương mại điện tử quốc gia
Ông Trịnh Đình Khương Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Bưu chính - Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Chúng tôi đang tiến hành việc triển khai các nội dung hợp tác giữa SPT với Trung tâm xúc tiến Phát triển phần mềm doanh nghiệp (VSDC) thuộc VCCI. Với mục tiêu chính là hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh phục vụ hội nhập và phát triển thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Hai bên đã thống nhất, xây dựng và thực hiện chương trình hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong các lĩnh vực: ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo, hội thảo về thị trường, quảng bá, bảo vệ thương hiệu, sử dụng Internet phục vụ kinh doanh, nắm bắt công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý.
Trong đó quan trọng và có ý nghĩa nhất là: VCCI và SPT cùng phối hợp xây dựng cổng thương mại điện tử quốc gia (National Business Portal) trên hạ tầng kỹ thuật của SPT, xứng đáng với tầm vóc và vị trí của nó nhằm phát huy tốt nhất các giao dịch quốc tế qua cổng. Hai bên phối hợp đảm bảo an ninh hệ thống, bảo vệ an toàn dữ liệu và nghiên cứu phát triển các hệ thống mạng liên thông và đảm bảo khả năng tích hợp với hệ thống, nhằm đảm bảo phục vụ các doanh nghiệp khi hội nhập với thị trường khu vực và thế giới (như hệ thống chứng thực, thanh toán điện tử...).
Hai bên sẽ phối hợp tổ chức các chương trình vận động, hỗ trợ các địa phương, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp tham gia, sử dụng và khai thác cổng thương mại quốc gia như một phương tiện hiện đại hóa trong giao dịch thương mại và hội nhập quốc tế. Hai bên phối hợp tổ chức phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng trên cổng và nghiên cứu phương án tổ chức khai thác tiếp theo.
Nghiên cứu mở rộng quan hệ với thị trường quốc tế thông qua việc hợp tác với các đối tác nước ngoài. Hỗ trợ các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp tham gia Cổng thương mại điện tử. Cung cấp cho các doanh nghiệp thông tin kinh tế do VCCI nghiên cứu, biên soạn qua mạng truyền thông của SPT (gồm cả tin nhắn qua điện thoại di động).
█
Thương mại điện tử để thúc đẩy tăng trưởng dịch vụ
Thạc sỹ Cao Ngọc Thành Viện Kinh tế Tp.HCM
Tăng trưởng nhanh và bền vững là hai yêu cầu bức thiết đối với phát triển kinh tế Tp.HCM giai đoạn 2006-2010. Để thực hiện được hai yêu cầu này thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ và giảm dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và nông nghiệp là giải pháp căn cơ, mang tính chiến lược.
Trong quá trình này việc phát triển và ứng dụng thương mại điện tử ở tất cả các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế, loại hình tổ chức là một trong những biện pháp thúc đẩy có ý nghĩa đáng kể...
Để nâng trình độ sẵn sàng cho thương mại điện tử, thành phố cần chú ý các vấn đề: cơ sở hạ tầng và công nghệ, sự tiếp cận với các dịch vụ cần thiết, mức độ sử dụng Internet, trình độ nguồn nhân lực, và định vị đến nền kinh tế số. Mục tiêu cơ bản mà thành phố cần đạt để thúc đẩy phát triển thương mại điện tử trên địa bàn giai đoạn 2006-2010 là: mật độ thuê bao Internet đạt 20-25 máy/100 dân; mật độ điện thoại: 45 máy/100 dân; khoảng 60% doanh nghiệp thực hiện các giao dịch trên mạng; 15% hộ gia đình có thói quen mua sắm trên mạng.
Như vậy, cần thực hiện các biện pháp:
Tiếp tục nâng cấp và xây dựng mạng viễn thông, mạng Internet truyền băng thông rộng để các doanh nghiệp có thể ứng dụng nhiều hơn các tiện ích của thương mại điện tử;
Mở rộng và đa dạng hóa việc ứng dụng các tiện ích Internet, các ứng dụng phục vụ thiết thực cho thương mại điện tử;
Tiếp tục đẩy nhanh việc triển khai và ứng dụng Chính phủ điện tử, đặc biệt là các dịch vụ đối với doanh nghiệp (B2G);
Tiếp tục triển khai đào tạo các chuyên gia công nghệ thông tin, đặc biệt là các chuyên gia có thể sử dụng và ứng dụng thành thạo các phần mềm nhằm mục đích giao dịch, thực hiện các giao dịch điện tử;
Cần thay đổi đối với một số quy định như quy định về chứng từ kế toán tại các doanh nghiệp, ngân hàng;
Áp dụng các hình thức thanh toán qua mạng, để có thể triển khai thanh toán điện tử một cách thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng sử dụng.